Trước
khi xảy ra đại dịch COVID-19, ngành du lịch Việt Nam đã có bước tăng
trưởng vượt bậc, trung bình 22,7%/năm trong giai đoạn 2015-2019. Năm
2019, toàn ngành đón trên 18 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 85 triệu
lượt khách du lịch nội địa; đóng góp trên 9,2% vào GDP và từng bước
khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn (tỷ lệ đóng góp vào GDP năm 2015
là 6,3%). Du lịch Việt Nam đạt được nhiều giải thưởng danh giá do các
tổ chức du lịch uy tín trên thế giới bình chọn đã khẳng định thương
hiệu và chất lượng của du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Trong
đại dịch COVID-19, du lịch Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng, phải
đóng cửa biên giới ngay trong tháng 3/2020 khiến cho ngành du lịch
“đóng băng”. Trong 02 năm 2020, 2021, đại dịch COVID-19 tác động nặng
nề tới toàn bộ đời sống, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Hoạt động du
lịch quốc tế phải tạm dừng hoàn toàn từ tháng 4/2020 đến tháng 11/2021.
Hoạt động du lịch nội địa trải qua 4 lần gián đoạn tương ứng với 4
lần bùng phát dịch. Năm 2020, khách nội địa giảm 34%, tổng thu từ khách
du lịch giảm 60% so với năm 2019. Năm 2021, khách du lịch nội địa đạt
40 triệu lượt, giảm 29% so với năm 2020. Năm 2022, lượng khách quốc tế
đến Việt Nam đạt 3,66 triệu lượt người, gấp 23,3 lần so với năm 2021,
nhưng vẫn giảm 79,7% so với năm 2019. Số lượng khách du lịch nội địa và
quốc tế giảm mạnh, kéo theo doanh thu của các cơ sở lưu trú và lữ hành
cũng sụt giảm nghiêm trọng; tổng thu từ khách du lịch đạt tỷ đồng, giảm
42% so với cùng kỳ.
Bước
sang năm nay, tính đến tháng 11/2023, tổng lượng khách quốc tế đạt trên
11,2 triệu lượt, vượt kế hoạch đề ra. Chỉ tính riêng trong tháng
11/2023, du lịch Việt Nam đón trên 1,23 triệu lượt khách quốc tế, tăng
11% so với tháng trước. Đây là tháng đón lượng khách quốc tế cao nhất kể
từ đầu năm 2023. Đặc biệt, đây cũng là mùa cao điểm đón khách du lịch
quốc tế. Để thu hút hiệu quả nguồn khách này, việc xây dựng và triển
khai công tác xúc tiến, quảng bá đúng trọng tâm, trọng điểm được coi là
nhiệm vụ quan trọng, cần quan tâm hàng đầu.
Mặc
dù thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều quyết sách/chính sách nhằm phục
hồi hoạt động du lịch, tuy nhiên công tác xúc tiến, quảng bá du lịch vẫn
gặp một số tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện. Điều
này đòi hỏi các cơ quan chức năng cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung chính
sách, pháp luật trong lĩnh vực này để hoạt động tác xúc tiến, quảng bá
du lịch đạt hiệu quả, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.
Chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch hiện nay
Chính
sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch là công cụ hữu hiệu của
Nhà nước để ghi nhận quyền hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của
doanh nghiệp, được thực hiện trong bối cảnh tự do thương mại, phục hồi
phát triển kinh tế du lịch, là hàng rào pháp lý để ngăn chặn những ảnh
hưởng tiêu cực của hoạt động này đối với cạnh tranh, đối với lợi ích
của Nhà nước và cộng đồng.
Có
thể thấy, hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của doanh nghiệp là các
hành vi thương mại chuyên biệt của xúc tiến thương mại được điều chỉnh
bởi Luật Thương mại năm 2005, Luật Du lịch năm 2017. Ngoài ra, hoạt
động này còn được điều chỉnh bằng Luật Quảng cáo năm 2012, Luật Cạnh
tranh năm 2018 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Hoạt động
này bao gồm nhiều hành vi thương mại (khuyến mại, quảng cáo, giới
thiệu sản phẩm, tham gia hội chợ và triển lãm du lịch…) của các doanh
nghiệp nhằm tuyên truyền, quảng bá và xâm nhập thị trường, thu hút khách
hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ du lịch. Thông qua hoạt động xúc tiến,
quảng bá của doanh nghiệp, vừa thúc đẩy việc mua bán sản phẩm dịch vụ
liên quan tới du lịch cho du khách trong và ngoài nước, góp phần tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phục hồi và phát triển du
lịch, quảng bá hình ảnh, con người Việt Nam, tạo sự hấp dẫn đối với du
khách.
Pháp
luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của
doanh nghiệp từ ba góc độ: Tính thương mại của các hoạt động xúc tiến
du lịch, tính cạnh tranh và yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng. Tuy nhiên, đứng dưới góc độ pháp lý điều chỉnh về xúc tiến, quảng
bá du lịch còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với các phương thức của thời
đại công nghệ số, chưa có quy định pháp luật điều chỉnh đối với các
phương thức đa dạng phát sinh trong thực tiễn với các sản phẩm du lịch
mới; còn có sự chồng chéo, trùng lặp, thiếu rõ ràng trong các quy định
pháp luật, còn nhiều quy định về khuyến mại, quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm dịch vụ, hội chợ, triển lãm du lịch chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
thực tiễn hoạt động du lịch, yêu cầu đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Pháp luật điều chỉnh về xúc tiến,
quảng bá du lịch đối với doanh nghiệp hiện hành thiếu sự thống nhất với
pháp luật cạnh tranh, thiếu những quy định cần thiết để điều chỉnh kịp
thời một số hoạt động xúc tiến, quảng bá mới phát sinh trong nền kinh
tế… Vì những lý do này, thực trạng thi hành pháp luật về xúc tiến,
quảng bá cũng còn nhiều vấn đề vướng mắc, chưa đảm bảo toàn diện về yếu
tố pháp lý để hỗ trợ ngành Du lịch, đặc biệt là các doanh nghiệp du lịch
từng bước phục hồi và tiếp tục phát triển trong bối cảnh mới.
Sông Bến Hải – Cầu Hiền Lương, Quảng Trị. Ảnh: TITC
Một số tồn tại, hạn chế trong thực hiện chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch hiện nay
Về khuyến mại du lịch:
Dù các hình thức khuyến mại du lịch đã được pháp luật quy định khá chi
tiết, nhưng trên thực tế việc áp dụng các hình thức này còn có nhiều sự
nhầm lẫn. (i) Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng những “ranh giới”/”khoảng
trống” giữa các hình thức này để thực hiện hoạt động khuyến mại du lịch
mập mờ, có tính chất lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh. (ii) Pháp
luật chưa có quy định ràng buộc doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trong
khuyến mại du lịch và chưa có chế tài xử lý đối với doanh nghiệp có vi
phạm trong khuyến mại du lịch. (iii) Thủ tục hành chính về khuyến mại du
lịch của doanh nghiệp còn bất cập; việc trích 50% giá trị giải thưởng
đã công bố vào ngân sách Nhà nước trong trường hợp không có người trúng
thưởng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp.
Về quảng cáo du lịch:
(i) Quy định về quảng cáo trên truyền hình và mạng internet/mạng xã hội
còn thiếu cụ thể, chưa có quy định pháp luật để xử lý vi phạm. (ii) Quy
định về xin cấp phép xây dựng công trình quảng cáo du lịch chưa thống
nhất, đồng bộ. (iii) Quy định về trách nhiệm của “Đại diện thương hiệu”
quảng cáo du lịch còn bị bỏ ngỏ.
Về giới thiệu sản phẩm dịch vụ du lịch:
(i) Khái niệm về các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch chưa làm rõ
được những đặc trưng cơ bản về pháp lý. Khuyến mại, quảng cáo, giới
thiệu sản phẩm dịch vụ du lịch, hội chợ, triển lãm du lịch có chung bản
chất là các hoạt động thương mại do doanh nghiệp tiến hành để tìm
kiếm, thúc đẩy cơ hội thương mại. Tuy nhiên, mỗi hình thức đều có điểm
riêng để phân biệt nhưng chưa được luật hóa rõ đặc điểm của từng hình
thức, nội dung “quảng cáo” và “giới thiệu sản phẩm dịch vụ” du lịch còn
nhầm lẫn. (ii) Có sự chồng chéo, trùng lặp thiếu thống nhất của nhiều
văn bản pháp luật do nhiều cơ quan khác nhau ban hành. Hai nhóm văn bản
pháp luật về quảng cáo điều chỉnh hoạt động quảng cáo du lịch theo hệ
thống Luật Thương mại năm 2005 và Luật Quảng cáo năm 2012 có nhiều nội
dung không thống nhất. (iii) Thủ tục hành chính để thực hiện các hình
thức xúc tiến du lịch của doanh nghiệp còn rườm rà, gây phiền hà cho
doanh nghiệp trong thực hiện xúc tiến, quảng bá du lịch. (iv) Nhiều
doanh nghiệp đã và đang thực hiện hình thức xúc tiến du lịch là quản trị
mối quan hệ khách hàng (CRM), quan hệ công chúng (PR), thương mại điện
tử (Ecommerce) để liên hệ với thị trường nhằm mục đích tìm kiếm, thúc
đẩy cơ hội cung ứng dịch vụ du lịch nhưng pháp luật thương mại hiện
hành chưa có quy định điều chỉnh đối với hoạt động này. Hình thức xúc
tiến du lịch trên môi trường mạng internet là thương mại điện tử,
tiếp thị điện tử và việc sử dụng, khai thác nền tảng hạ tầng số của
cũng chưa được pháp luật quy định cụ thể.
Về quảng cáo, khuyến mại không đúng sự thật:
(i) Không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về sản phẩm dịch vụ du lịch để
lừa dối khách hàng. (ii) Gian dối về giải thưởng. (iii) Số lượng, cơ cấu
giải thưởng, loại giải thưởng ít hơn hoặc không đúng như đã công bố.
(iv) Quảng cáo du lịch so sánh trực tiếp sản phẩm, dịch vụ với sản phẩm,
dịch vụ du lịch cùng loại của doanh nghiệp khác. (v) Quảng cáo du lịch
bắt chước một sản phẩm, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác.
Phương hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật xúc tiến, quảng bá du lịch trong thời gian tới
Thời
gian qua, sau khi mở cửa lại hoạt động du lịch, công tác quảng bá, xúc
tiến du lịch Việt Nam đã được triển khai mạnh mẽ và mang lại nhiều kết
quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế bởi nhiều
nguyên nhân, do đó đòi hỏi cần có phương hướng khắc phục kịp thời để
công tác này đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới.
Một là,
đẩy mạnh chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch và hoàn thiện chính
sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch dựa trên nguyên tắc cơ
chế kinh tế thị trường.
Hai là,
hoàn thiện pháp luật xúc tiến, quảng bá du lịch trên cơ sở bảo đảm
trách nhiệm của doanh nghiệp du lịch gắn với quyền lợi người tiêu dùng
dịch vụ.
Ba là, hoàn thiện pháp luật xúc tiến, quảng bá du lịch phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và các cam kết, điều ước quốc tế.
Bốn là, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong thực hiện chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch.
Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật xúc tiến, quảng bá du lịch
Để
khai thác tiềm năng du lịch Việt Nam, cần loại bỏ những rào cản từ
chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch. Vì vậy, việc nghiên
cứu làm rõ nội dung quyền hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của
doanh nghiệp để thể chế hoá kịp thời và đầy đủ những yêu cầu mà hoạt
động xúc tiến, quảng bá du lịch đặt ra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch cần được
đề cập toàn diện các vấn đề về hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch; các
quy định pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh và bảo vệ quyền lợi khách hàng. Trên cơ sở những tồn tại, hạn
chế được nêu ở phần trên, các cơ quan chức năng cần xem xét, rà soát
hoàn thiện một số chính sách, pháp luật xúc tiến, quảng bá du lịch. Cụ
thể như sau:
Về hình thức khuyến mại du lịch:
(i) Đề nghị hủy bỏ quy định trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố
vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng tại
khoản 4, Điều 96 Luật Thương mại 2005. (ii) Bổ sung quy định về trách
nhiệm nghĩa vụ cá nhân của doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp và nghĩa vụ trách nhiệm cá nhân của người được giao tổ
chức chương trình khuyến mại vào Điều 96 Luật Thương mại. (iii) Rà soát
đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong thủ tục khuyến mãi du lịch của
doanh nghiệp được quy định tại Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày
22/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về Luật Thương mại đã được chỉ
ra tại phần thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về khuyến mại
du lịch và luật hóa các nội dung này khi tiến hành sửa đổi Luật Thương
mại năm 2005.
Về hình thức quảng cáo du lịch:
(i) Sửa đổi khái niệm về “quảng cáo thương mại” theo hướng phân biệt rõ
với hoạt động “trưng bày giới thiệu dịch vụ” tại Điều 102 Luật Thương
mại năm 2005. (ii) Bổ sung quy định trách nhiệm của người ký hợp đồng
làm “đại diện thương hiệu” cho sản phẩm dịch vụ đối với nội dung quảng
cáo sản phẩm dịch vụ du lịch mà họ đại diện vào Luật Thương mại năm
2005. (iii) Bổ sung những quy định cụ thể nhằm tăng trách nhiệm của cơ
quan truyền thông đại chúng trong việc đưa những sản phẩm dịch vụ quảng
cáo du lịch qua phương tiện truyền thông đại chúng và internet đúng quy
định pháp luật, đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin trung thực, chính
xác đối với người xem, nghe; đồng thời bổ sung quy định và cơ chế quản
lý, xử lý đối với các vi phạm về quảng cáo qua internet đối với các sản
phẩm dịch vụ du lịch kém chất lượng, lừa dối khách hàng vào Luật Quảng
cáo hiện hành. (iv) Thống nhất quy định về việc xây dựng các công trình
quảng cáo ngoài trời theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 31 Luật
Quảng cáo năm 2012 và Điều 10 Luật Đất đai năm 2013 (Luật Đất đai năm
2013 đang trong quá trình điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi).
Về hình thức giới thiệu sản phẩm dịch vụ du lịch:
Bổ sung quy định cụ thể về cơ chế quản lý nhà nước đối với quyền thực
hiện hoạt động giới thiệu sản phẩm dịch vụ du lịch giữa các tổ chức, cá
nhân được thành lập hợp pháp trong nước với các tổ chức, cá nhân nước
ngoài chưa được thành lập hợp pháp tại Việt Nam vào Luật Thương mại năm
2005.
Về hình thức hội chợ, triển lãm sản phẩm du lịch: (i)
Bổ sung quy định cho phép giảm giá sản phẩm dịch vụ du lịch được giới
thiệu tại hội chợ, triển lãm du lịch được vượt 50% giá sản phẩm dịch vụ
tại Luật Thương mại năm 2005. (ii) Bổ sung các hình thức xúc tiến du
lịch mới, phát sinh trong thực tiễn đời sống pháp lý được doanh nghiệp
sử dụng để xúc tiến du lịch vào nội dung xúc tiến thương mại được Luật
Thương mại điều chỉnh. (iii) Hoàn thiện các quy định pháp luật về xúc
tiến du lịch bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.
Về bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong xúc tiến du lịch:
(i) Bổ sung hành vi quy định là cạnh tranh không lành mạnh trong khuyến
mại, quảng cáo du lịch và hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra
trong các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch khác vào Điều 8 Luật
Quảng cáo năm 2012 và Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018. (ii) Bổ sung
khái niệm quy định về quảng cáo so sánh và cơ chế bảo vệ doanh nghiệp có
sản phẩm dịch vụ bị quảng cáo so sánh vào Luật Quảng cáo năm 2012, sửa
đổi bổ sung năm 2018.
Về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong xúc tiến du lịch: (i) Bổ sung
vào pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về các hành vi vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng mới có thể nảy sinh trong điều kiện chuyển đổi
số; cần có quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao
dịch đặc thù như giao dịch từ xa, giao dịch được thực hiện trên không
gian mạng. (ii) Bổ sung các quy định cụ thể về trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng trong các giao dịch trên không
gian mạng.
Tượng đài Khát vọng Thống nhất bên cầu Hiền Lương. Ảnh: TITC
Giải pháp thúc đẩy hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam
Ngày
15/3/2023, Thủ tướng Chính phủ chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc
phát triển du lịch Việt Nam năm 2023. Theo đó, Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 82/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi,
tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững. Bên cạnh đó, Chính phủ
ban hành Nghị quyết số 127/NQ-CP về việc thực hiện áp dụng cấp thị thực
điện tử cho công dân tất cả các nước, vùng lãnh thổ và Nghị quyết số
128/NQ-CP nâng thời tạm trú lên 45 ngày đối với 13 nước được đơn phương
miễn thị thực. Đây được coi là những chính sách mang tính động lực, tạo
đòn bẩy mạnh mẽ để du lịch Việt Nam có những bước tiến dài, nhất là khi
lượng tìm kiếm quốc tế về du lịch nước ta thời gian qua không ngừng
tăng, và chỉ số năng lực phát triển của du lịch Việt Nam đạt mức độ cải
thiện xếp hạng cao hàng đầu thế giới (năm 2021 tăng 8 bậc so với năm
2019).
Ngày
15/8/2023, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập
cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư
trú của người nước ngoài tại Việt Nam chính thức có hiệu lực với những
điều chỉnh về thị thực theo hướng cởi mở hơn đã khởi động một lộ trình
thông thoáng để Việt Nam rộng cửa đón khách. Theo các chuyên gia, để có
thể tận dụng lợi thế từ những quyết sách này nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh và tăng cường khả năng thu hút khách, ngành du lịch Việt Nam còn
nhiều việc cần làm.
Trên
cơ sở đánh giá, phân tích tình hình trong nước và quốc tế; quan điểm,
định hướng và mục tiêu phát triển ngành Du lịch Việt Nam có trọng tâm,
trọng điểm, với phương châm: “Sản phẩm đặc sắc – Dịch vụ chuyên nghiệp
– Thủ tục thuận tiện, đơn giản – Giá cả cạnh tranh – Môi trường
vệ sinh sạch, đẹp – Điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện” và thực
sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thì việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả, tính chuyên nghiệp của hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch là yêu
cầu cấp thiết. Để giúp các bên liên quan thực hiện tốt định hướng, mục
tiêu của Nhà nước về xúc tiến, quảng bá du lịch cần có giải pháp nhằm
tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động này được hiệu quả
xin được đề xuất cụ thể như sau:
Về phía cơ quan quản lý du lịch cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về xúc tiến, quảng bá du lịch, trong đó:
Thứ nhất,
cơ cấu lại ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, chất
lượng, bền vững, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc cơ cấu lại thị
trường khách du lịch. Tiếp tục thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát
triển nhanh thị trường du lịch nội địa, tạo nền tảng cho tăng trưởng
bứt phá trong ngắn hạn. Đa dạng hóa, khai thác hiệu quả thị trường
nguồn khách quốc tế lớn, chú trọng thị trường có khả năng chi trả cao,
nghỉ dưỡng dài ngày, phát triển phân khúc khách du lịch theo các sản
phẩm chuyên đề mà Việt Nam có thế mạnh; tăng cường nghiên cứu, nắm bắt
những xu hướng du lịch mới và đưa ra các chính sách kịp thời, phù hợp.
Đổi mới cơ chế, chính sách đột phá để huy động các nguồn lực, cơ cấu
lại ngành du lịch để thực hiện khả thi, hiệu quả các mục tiêu phục hồi,
phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung liên kết
phát triển sản phẩm, thị trường; kết nối tour, tuyến, điểm du lịch
trong vùng và liên vùng. Hình thành mô hình liên kết giữa các địa
phương, có sự tham gia của cơ quan du lịch quốc gia và doanh nghiệp lớn.
Phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tham gia vào phát triển
du lịch mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, đa sắc màu văn hóa địa
phương, vùng miền; đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa trong thời gian
tới.
Thứ hai,
tiếp tục tạo thuận lợi thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam,
phát huy vai trò của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong cung
cấp thông tin, quảng bá, giới thiệu du lịch, tạo điều kiện thuận lợi
thu hút khách quốc tế đến Việt Nam; mở rộng diện áp dụng miễn thị thực
đơn phương. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, tạo thuận lợi về nhập cảnh,
xuất cảnh, đi lại cho khách du lịch quốc tế; mở rộng danh sách quốc
gia được cấp thị thực điện tử (E-visa), mở rộng diện được cấp thị thực
điện tử, bảo đảm tính thống nhất về quy định cấp thị thực điện tử và
thị thực truyền thống và kéo dài thời gian tạm trú cho người nước ngoài
vào Việt Nam.
Thứ ba,
tăng cường thu hút đầu tư phát triển du lịch có trọng tâm, trọng điểm,
tập trung vào các khu du lịch quốc gia. Đổi mới, đa dạng hóa các hình
thức marketing du lịch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, triển khai đa
dạng, linh hoạt các hình thức truyền thông marketing phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu của từng thị trường, từng giai đoạn; tập trung, huy động
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ marketing du lịch; đẩy mạnh
các hoạt động truyền thông du lịch, thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đơn
vị báo chí truyền thông lớn trong nước và quốc tế; nâng cao năng lực
marketing du lịch.
Thứ tư,
phát triển sản phẩm, làm mới loại hình, dịch vụ du lịch đa dạng, độc
đáo trên cơ sở tiềm năng, lợi thế cạnh tranh, gắn với phát huy giá trị
di sản và bản sắc văn hóa dân tộc như du lịch văn hóa, du lịch nghỉ
dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch canh nông, du lịch MICE, du lịch golf,
du lịch chữa bệnh, du lịch ẩm thực… Nâng cao khả năng cạnh tranh về
giá cả và chất lượng dịch vụ. Phát triển thương hiệu du lịch quốc gia
gắn với lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; xây dựng Việt
Nam thật sự là điểm đến an toàn, hấp dẫn, nhân văn, hiếu khách, thuận
lợi. Tạo lập cơ sở dữ liệu thị trường khách du lịch quốc tế; đổi mới
phương thức, công cụ, ứng dụng công nghệ số trong xúc tiến, quảng bá du
lịch; phát huy sức mạnh của truyền thông và tăng cường quảng bá trên
mạng xã hội. Tổ chức xúc tiến, quảng bá du lịch có trọng tâm, trọng
điểm, phù hợp định hướng phát triển sản phẩm, thương hiệu du lịch trên
cơ sở kết quả nghiên cứu, dự báo thị trường. Tiếp tục mở rộng, đa dạng
hóa thị trường có khả năng tăng trưởng nhanh, có nguồn khách lớn, có mức
chi tiêu cao và lưu trú dài ngày; đẩy mạnh xã hội hóa xúc tiến, quảng
bá du lịch, huy động sự hợp tác của các cơ quan đại diện ở nước ngoài,
tận dụng vai trò các trung tâm văn hóa Việt Nam tại các quốc gia. Triển
khai thực hiện hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho hoạt động xúc tiến,
quảng bá du lịch thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch Việt Nam.
Thứ năm,
hỗ trợ doanh nghiệp du lịch, triển khai phát triển hệ thống doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng du lịch
toàn cầu; đa dạng hóa các mô hình doanh nghiệp du lịch phù hợp với xu
hướng và yêu cầu phát triển; hỗ trợ ưu đãi tín dụng, tạo điều kiện hỗ
trợ doanh nghiệp du lịch tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi. Hình thành
các văn phòng xúc tiến du lịch Việt Nam ở nước ngoài. Trước mắt, xem xét
tranh thủ nguồn lực của khu vực tư nhân hoặc thành lập đại diện xúc
tiến du lịch thông qua cơ chế hợp đồng, có sự hỗ trợ của đại sứ quán,
thương vụ ở nước sở tại. Đây được xem là giải pháp hữu hiệu giúp tăng
cường hiệu quả xúc tiến, quảng bá ở các thị trường trọng điểm quốc tế,
cũng là mong mỏi của các doanh nghiệp du lịch và toàn ngành du lịch.
Thứ sáu,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch hướng
tới mục tiêu đủ số lượng, cân đối cơ cấu ngành nghề, bảo đảm chất lượng,
đáp ứng nhu cầu thị trường và phù hợp với các định hướng phát triển sản
phẩm, tổ chức không gian. Chú trọng đào tạo và nâng cao kỹ năng nghề
du lịch và năng lực quản lý du lịch, đủ điều kiện tham gia vào chuỗi
cung ứng du lịch toàn cầu. Tăng cường liên kết hợp tác giữa doanh nghiệp
và các trường đào tạo trong đào tạo nhân lực du lịch.
Thứ bảy,
đẩy nhanh thực hiện chuyển đổi số, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng
tạo trong lĩnh vực du lịch. Xây dựng hệ sinh thái du lịch thông minh,
hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, kinh doanh dịch vụ du lịch, nâng cao
trải nghiệm du khách bao gồm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch
quốc gia; phát triển website du lịch quốc gia, ứng dụng du lịch quốc gia
“Du lịch Việt Nam – Vietnam Travel”, thẻ Việt – thẻ du lịch thông minh
phục vụ khách du lịch; phát triển nền tảng số “Quản trị và kinh doanh du
lịch”; phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch quốc gia, các nền tảng
số kết nối liên thông hệ thống thông tin du lịch với các ngành liên
quan phục vụ công tác hoạch định chính sách và điều hành, quản lý nhà
nước và phục vụ doanh nghiệp, khách du lịch trong nước, quốc tế; đẩy
mạnh chuyển đổi số, hình thành và phát triển hệ sinh thái du lịch thông
minh ở Việt Nam; thiết kế, xây dựng, tổ chức, vận hành một website quốc
gia và một ứng dụng di động quốc gia về du lịch theo cách chuyên
nghiệp, nội dung phong phú, hấp dẫn và mang lại nhiều hữu ích cho khách
du lịch.
Về phía các doanh nghiệp du lịch:
Trong quá trình thực hiện các hoạt động xúc tiến, quảng bá, các doanh
nghiệp du lịch chỉ được tiến hành các hình thức xúc tiến, quảng bá phù
hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, không được trái, không được
vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Khi
thực hiện các hình thức xúc tiến, quảng bá, khuyến mại, giới thiệu sản
phẩm, tham gia hội chợ, triển lãm du lịch, các doanh nghiệp du lịch cần
chú trọng việc huy động nguồn lực; tính chuyên nghiệp, chuyên môn cao;
xúc tiến phải gắn với sản phẩm, thị trường du lịch; liên kết, hợp tác
trong cạnh tranh; tranh thủ sự hỗ trợ/giúp đỡ của các cơ quan quản lý
nhà nước về du lịch trong quá trình tổ chức thực hiện xúc tiến, quảng bá
du lịch và thực hiện thống nhất, đồng bộ các giải pháp để đảm bảo tổ
chức thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du
lịch: (i) Tăng cường năng lực xúc tiến, quảng bá du lịch. (ii) Đẩy mạnh
hoạt động xúc tiến tại chỗ thông qua khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam. (iii) Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, xúc tiến, quảng bá Du lịch
Việt Nam ở nước ngoài kết hợp đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền,
xúc tiến, quảng bá trong nước. (iv) Chú trọng điều chỉnh các phương
thức, công cụ xúc tiến, quảng bá du lịch chuyên nghiệp, hiệu quả, ưu
tiên các công cụ nhanh, trực tiếp, chi phí thấp; sử dụng hiệu quả hơn
các hoạt động e-marketing phục vụ xúc tiến, quảng bá du lịch. (v) Đa
dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng,
thỏa mãn tốt các yêu cầu du lịch ngày càng cao của khách du lịch.
Sông Bến Hải – Cầu Hiền Lương, Quảng Trị. Ảnh: TITC
Thay cho lời kết
Xúc
tiến, quảng bá du lịch là một hoạt động được doanh nghiệp thực hiện
nhằm đáp ứng nhu cầu cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Để đạt
được những lợi ích thương mại từ dịch vụ du lịch, các hoạt động xúc
tiến, quảng bá du lịch của doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến lợi ích của
Nhà nước, của doanh nghiệp khác và người tiêu dùng là khách du lịch.
Năm 2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Chiến lược
Marketing du lịch Việt Nam đến năm 2030. Chiến lược xác định thị trường
mục tiêu của du lịch Việt Nam và xây dựng một hình ảnh điểm đến Việt Nam
thân thiện mến khách đối với thị trường quốc tế cũng như nội địa; tiến
hành xây dựng các sản phẩm chủ lực là sản phẩm du lịch văn hóa, du lịch
sinh thái, du lịch MICE, du lịch đô thị, du lịch ẩm thực và các sản phẩm
du lịch chủ lực mà Việt Nam có thế mạnh và có sức cạnh tranh. Trong năm
2023, Du lịch Việt Nam đã đạt nhiều giải thưởng của Tổ chức giải thưởng
du lịch thế giới. Trong đó, lần thứ 4 Việt Nam được vinh danh là Điểm
đến Di sản hàng đầu thế giới; lần thứ 5 được bình chọn là Điểm đến du
lịch hàng đầu châu Á.
Để
định vị Việt Nam là điểm đến du lịch hấp dẫn hàng đầu trong khu vực,
khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam, việc
xúc tiến, quảng bá là hết sức cần thiết. Muốn phát triển du lịch, phải
coi trọng công tác xúc, tiến quảng bá du lịch để du khách được biết,
quan tâm, đến được, có cảm xúc tích cực để tìm hiểu, trải nghiệm, tận
hưởng và thích thú với điểm đến đó. Trên cơ sở những phân tích nêu trên,
rất mong các cơ quan chức năng đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn
thiện chính sách, pháp luật về xúc tiến, quảng bá du lịch. Đồng thời,
khắc phục những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn để
hoạt động xúc tiến, quảng bá thực sự có hiệu quả nhằm phát triển Du
lịch Việt Nam trong thời gian tới./.
TS. Đoàn Mạnh Cương, Văn phòng Quốc hội