Duyên hải Nam Trung bộ bao gồm 8 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận được xác định là vùng du lịch với đặc trưng cơ bản về du lịch biển, đảo trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Du lịch biển vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có nhiều tiềm năng và thế mạnh
Tiềm năng về tài nguyên du lịch biển vượt trội
Đây là vùng có tiềm năng to lớn về du lịch biển: Bãi biển là tiềm năng về tài nguyên du lịch biển vượt trội của vùng này. Các bãi biển nơi đây có nước biển trong, xanh, sạch và ấm quanh năm; bãi biển dài, cát trắng, mịn và đẹp như Non Nước, Cửa Đại, Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Quy Nhơn, Đại Lãnh, Vân Phong, Nha Trang, Ninh Chữ, Cà Ná, Mũi Né… Với khí hậu nhiệt đới, ôn hòa, nhiệt độ ấm áp quanh năm, bãi biển thoải, nền chắc và nước trong. Những bãi biển đẹp trở thành địa chỉ lý tưởng cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng, giải trí biển và có thể đầu tư phát triển thành những khu nghỉ dưỡng biển cao cấp có sức hấp dẫn du lịch mạnh mẽ.
Hệ thống đảo gần bờ hầu như còn nguyên sơ, có giá trị đa dạng sinh học cao với hệ động, thực vật đa dạng và các loài quý hiếm. Với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, không khí trong lành, các bãi biển trên đảo đặc biệt giữ được vẻ nguyên sơ vì vậy có giá trị đặc biệt đối với du lịch nghỉ dưỡng, giải trí và thể thao biển. Các đảo ven bờ có diện tích đủ lớn và điều kiện có thể phát triển du lịch như bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), Cù Lao chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Hòn Tre, Hòn Tằm (Khánh Hòa), Phú Quý (Bình Thuận)… Gía trị cảnh quan môi trường, đa dạng sinh học và sự nguyên sơ tách biệt của các đảo tạo sự hấp dẫn đặc biệt đối với du lịch. Mỗi hòn đảo đều có thể trở thành thiên đường nghỉ dưỡng đối với khách du lịch.
Hệ thống vũng vịnh như vịnh Quy Nhơn, Xuân Đài, Nha Trang, Vân Phong là nơi hội tụ không gian biển giao thoa với đời sống văn hóa ven biển tạo nên sức hấp dẫn đặc trưng của mỗi điểm du lịch. Hệ sinh thái ven bờ, trên vịnh và các đảo với sự đa dạng sinh học cao, có nhiều loài quý hiếm có giá trị tham quan, lặn biển, khám phá rạng san hô, câu cá và giải trí thể thao biển, du thuyền… đều tạo sức hấp dẫn du lịch mạnh mẽ.
Ngoài tiềm năng tự nhiên, các giá trị nhân văn gắn với văn hóa miền biển, văn hóa Sa Huỳnh với bề dày lịch sử và truyền thống lâu đời tạo lên phong cách, lối sống riêng của vùng này cũng tạo sức hấp dẫn diệu kỳ thu hút khách du lịch. Bề dày của nền văn hóa Chăm và văn hóa miền biển tạo đặc trưng riêng trong phong cách dịch vụ nơi đây. Phố cổ Hội An, Đền tháp Mỹ Sơn, Tháp Chàm Phan Rang, các trung tâm văn hóa của vùng tại các đô thị ven biển, các lễ hội truyền thống như lễ hội Tháp Bà Ponaga, lễ hội Nghinh Ông, lễ hội cầu ngư, lễ hội Katê.. làng nghề truyền thống và các di sản vật thể và phi vật thể khác tạo nên quần thể tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn vô cùng phong phú, hấp dẫn, đặc sắc riêng có của vùng có sức hấp dẫn và thu hút khách du lịch.
San Hô gần Hòn Yến – Phú Yên
Phải khẳng định có định hướng đúng và sự quan tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương xác định phát triển du lịch biển đảo trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội; Toàn vùng có cơ chế huy động nguồn lực hợp lý và có chính sách linh hoạt thu hút đầu tư du lịch.
Có thế mạnh về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn gắn với biển. Các địa phương trong vùng đã xác định được thế mạnh về tài nguyên du lịch biển đảo; Đã biết khai thác giá trị tài nguyên gắn với biển để phục vụ du lịch.
Sự năng động tích cực của các tỉnh/thành, sự chủ động của khu vực tư nhân đã nhanh chóng huy động nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư vào khai thác thế mạnh của du lịch biển.
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn được tăng cường; Các di sản văn hóa, giá trị truyền thống được tôn trọng.
Kết quả phát triển du lịch mang lại thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng, tạo việc làm và nâng cao đời sống xã hội. Qua đó ngành Du lịch biển đảo Nam Trung bộ đã thể hiện bước tăng trưởng nhanh và khẳng định rõ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế xã hội của vùng.
So với mặt bằng chung của cả nước, quy mô hoạt động du lịch không ngừng tăng trưởng, mở rộng.
Chất lượng dịch vụ du lịch được nâng cao và từng bước góp phần cải thiện diện mạo và sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Sự phát triển kinh tế du lịch biển vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và phát huy nguồn tài nguyên dồi dào của khu vực
Thực trạng phát triển du lịch biển, đảo ở khu vực Duyên hải Nam Trung bộ
Những năm qua, du lịch biển, đảo ở các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung bộ cũng đã biết nắm lấy lợi thế về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn và đang khai thác ngày càng có hiệu quả, thu hút luồng khách quốc tế và nội địa đến du lịch gắn với biển. Gần đây du khách đến từ xứ lạnh, đặc biệt như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Nga… là những thị trường chiếm tỷ trọng lớn. Khách du lịch nội địa đến từ miền Bắc cũng tăng mạnh. Sức hấp dẫn của các sản phẩm du lịch biển luôn đi liền với các trung tâm văn hóa lớn của vùng như Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Phan Thiết, Quy Nhơn. Các đảo Lý Sơn, Cù Lao Chàm, Sơn Trà, Hòn Tre, Hòn Tằm, Phú Quý… đang thu hút đầu tư du lịch trở thành những viên ngọc, những ngôi sao tỏa sáng hấp dẫn khách du lịch.
Tuy nhiên thành tựu phát triển du lịch biển đảo những năm qua thể thiện qua những chỉ tiêu cơ bản về lượng khách, thu nhập, cơ sở lưu trú, dịch vụ… cho thấy du lịch biển đảo duyên hải Nam Trung bộ mới khởi đầu phát triển.
Về lượng khách quốc tế và nội địa: Khách đến Quảng Ngãi và các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ tăng liên tục trong những năm qua. Số liệu bảng 1 và bảng 2 chỉ rõ, năm 2010 toàn vùng đón tiếp và phục vụ 2,3 triệu lượt khách quốc tế, tăng trưởng bình quân 11,2% năm; 8,4 triệu lượt khách du lịch nội địa, tăng trưởng bình quân 18,3% năm. Với tốc độ tăng trưởng về lượng khách trên 2 con số cho thấy sức hấp dẫn du lịch mạnh mẽ của vùng và hoạt động du lịch đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên quy mô khách so với cả nước (16,1% khách quốc tế và 11,5% khách nội địa) cho thấy du lịch biển, đảo vùng duyên hải Nam Trung bộ vẫn còn khiếm tốn và trong giai đoạn đầu tăng trưởng.
Độ dài lưu trú trung bình (LTTB) tại mỗi tỉnh đối với khách quốc tế là 1,6 ngày, đối với khách nội địa là 1,8 ngày và chung cho cả vùng từ 4-4,5 ngày (khách quốc tế) và 3-3,2 ngày (khách nội địa) như vậy còn thấp. Điều này cho thấy hoạt động du lịch còn đơn sơ chưa đa dạng thu hút khách lưu lại dài ngày; hệ thống dịch vụ du lịch và dịch vụ đi kèm chưa phát triển.
Về doanh thu du lịch: Năm 2010 doanh thu du lịch toàn vùng đạt trên 6,8 ngàn tỷ đồng trong đó tập trung chủ yếu ở 3 cổng thu hút khách đường không và đường bộ (Đà Nẵng-Quảng Nam, Khánh hòa, Bình Thuận). Quảng Ngãi cũng như các tỉnh khác do vị trí xen giữa các điểm đến lớn nên lượng khách đến còn ít, doanh thu chiếm tỷ trọng nhỏ. Tuy vậy, tốc độ tăng doanh thu trung bình 24,9%/năm trong cả giai đoạn 2005-2010 (cá biệt có tỉnh như Bình Thuận tỷ lệ tới 62%/năm, Quảng Nam 31,1%/năm) cho thấy sức vươn lên mạnh mẽ và tăng trưởng nhanh của ngành kinh tế du lịch biển của vùng.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch: Thể hiện qua cơ sở lưu trú du lịch cho thấy số lượng cơ sở và buồng lưu trú tăng nhanh trong thời gian qua 10,1% và 13,8%/năm tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng về khách du lịch. So với quy mô cả nước, tỷ trọng số buồng ngủ cao hơn tỷ trọng cơ sở lưu trú cho thấy quy mô của mỗi cơ sở lưu trú lơn hơn mặt bằng chung của cả nước, đặc biệt tỷ trọng các cơ sở cao cấp (4 và 5 sao) cao hơn hẳn mặt bằng chung. Điều này khẳng định vùng duyên hải Nam Trung bộ có cơ sở vật chất có khả năng đón và phục vụ khách du lịch cao cấp.
Dù năng động nhưng cũng có sự chênh lệch về mức độ phát triển và đầu tư của các địa phương trong khu vực
Khó khăn, thách thức
Hạn chế lớn nhất có thể thấy rõ hiệu quả kinh tế du lịch còn khiêm tốn, thể hiện ở thu nhập du lịch còn thấp, độ dài lưu trú ngắn, sản phẩm du lịch chưa phong phú đa dạng.
Tiếp đến là việc quản lý quy hoạch, khai thác tài nguyên du lịch biển (bãi biển, đảo..) chưa thực sự hiệu quả và bền vững. Một số nơi do quy hoạch chậm, quản lý yếu kém cùng với nhận thức chưa đầy đủ dẫn tới phá vỡ không gian du lịch, lãng phí tài nguyên và nảy sinh cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà cung ứng du lịch và giữa các địa phương.
Điểm yếu bao trùm là điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém và nhận thức du lịch ở hầu hết các địa phương chưa sâu sắc. Khả năng tiếp cận điểm đến còn hạn chế, mới chỉ có cảng biển Đà Nẵng có thể đón tàu du hành và vẫn chưa có cảng, bến tàu du lịch thực thụ.
Trình độ chuyên nghiệp trong quản lý và kỹ năng nghề nghiệp của nhân lực du lịch hạn chế và thiếu đồng bộ dẫn tới chất lượng dịch vụ chưa đạt chuẩn.
Nghiên cứu thị trường chưa quan tâm đúng mức; Xúc tiến quảng bá chưa theo đuổi thị trường mục tiêu dẫn tới việc đáp ứng nhu cầu các thị trường thiếu trúng đích và không tối đa hóa được thu nhập du lịch.
Sự phối hợp giữa các ngành các cấp, các đối tượng tham gia chưa chặt chẽ; sự gắn kết du lịch biển với không gian văn hóa miền biển, các di tích, lễ hội, làng nghề… chưa nhuần nhuyễn.
Nguồn lực đầu tư về tài chính, công nghệ từ trong nước còn hạn chế và phụ thuộc nhiều vào đầu tư từ bên ngoài.
Việc bảo vệ môi trường và xây dựng nếp sống văn minh du lịch còn nhiều bất cập dẫn tới nguy cơ sản phẩm du lịch bị suy thoái nhanh.
Thách thức lớn nhất đối với du lịch biển đảo Việt Nam là sự lồng ghép phong vị địa phương trong từng chi tiết sản phẩm du lịch với yêu cầu tính hiện đại, tiện nghi và chuyên nghiệp cao trong khi chất lượng cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực ở những vùng biển chưa đáp ứng được.
Cạnh tranh ngày càng mạnh về giá và chất lượng dịch vụ (đúng lúc, đúng chỗ, nhanh, chính xác, “sạch” … ) đang thách thức đối với quản lý và ứng dụng công nghệ đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Cạnh tranh trong khu vực và quốc tế ngày càng gia tăng.
Mực nước biển dâng và những tác động bất lợi, khó lường của biến đổi khí hậu sẽ thách thức lớn đối với các vùng du lịch biển còn kém năng lực thích ứng.
Vùng duyên hải Nam Trung bộ là việc khai thác tối ưu tiềm năng, lợi thế về tài nguyên biển phục vụ phát triển du lịch biển theo hướng bền vững và tạo sức bứt phá mạnh thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cho vùng.
Khu vực Duyên hải Nam Trung bộ có nhiều cơ hội trong khó khăn, thách thức để phát triển kinh tế du lịch biển
Cơ hội
Đảng và nhà nước tiếp tục quan tâm và có chính sách đổi mới trong phát triển du lịch; Phát huy thành tựu tăng trưởng giai đoạn trước, Chiến lược phát triển du lịch năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 sẽ được triển khai trong đó đặt trọng tâm ưu tiên phát triển du lịch biển đảo. Triển khai Đề án phát triển du lịch biển, đảo và vùng ven biển Việt Nam năm 2020 tạo ra chuỗi các sản phẩm du lịch gắn với biển, đặc biệt là nghỉ dưỡng biển, giải trí và thể thao biển sẽ làm nổi bật hình ảnh du lịch Việt Nam. Hiệu quả hoạt động du lịch được nâng lên rõ rệt nhờ hệ thống sản phẩm du lịch biển đa dạng có chất lượng cao, có thương hiệu nổi bật được thị trường mến mộ. Du lịch biển Việt Nam trở thành thương hiệu lớn có sức cạnh tranh trong khu vực.
Xu hướng du lịch từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam đang là thời cơ cho du lịch Việt Nam là điểm đến mới trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương năng động và hấp dẫn. Du lịch biển Việt Nam sẽ trở lên hấp dẫn và thu hút mạnh mẽ khách du lịch đến từ Đông Bắc Á và Châu Âu. Một trong những lợi thế so sánh trong cạnh tranh khu vực đó là vị thế đặc biệt của Việt Nam trong quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước Đông Âu và Nga. Những thị trường mới nổi có tiềm năng và dễ tính này sẽ tìm thấy sự hài lòng ở một Việt Nam là thiên đường của sự ấm áp và kỳ thú. Mặt khác, sự thoái trào của các khu du lịch biển nổi tiếng ở Địa Trung Hải, Thái Bình Dương và Caribe đang tạo cơ hội to lớn cho những khu du lịch biển mới nổi ở Việt Nam, là điểm đến mới lạ và được thiết kế theo phong cách mới gắn với bản sắc địa phương.
Vùng duyên hải Nam Trung bộ trong đó có Quảng Ngãi tiếp tục là địa chỉ lý tưởng cho du lịch nghỉ dưỡng biển, thể thao và giải trí gắn với sinh thái biển và văn hóa miền biển. Các nguồn lực đầu tư vào du lịch biển của vùng tiếp tục tăng cùng với các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể.
Nguồn: Môi trường và Cuộc sống